Đền Cuông – Di tích lịch sử được yêu thích nhất tại Vinh
Đền Cuông hay được gọi bằng một cái tên khác là đền Công. Nơi đây được xem là di tích lịch sử được yêu thích nhất của du khách khi đặt chân đến Vinh. Theo như lời người dân nơi đây kể lại thì tên gọi của đền gắn với một câu truyện lịch sử có thật được truyền từ đời này đến đời khác. Đền Cuông níu giữu chân khách du lịch khi đến đây bởi nét kiến trúc hài hòa với thiên nhiên với vẻ đẹp của con người nơi đây. Đi du lịch vào đúng dịp lễ bạn sẽ được chứng kiến người dân nơi đây thể hiện lòng thành kính của mình với các vị anh hùng xa xưa. Để biết rõ hơn về phong tục tập quán cũng như vẻ đẹp thì cùng chúng tôi đi tìm hiểu nhé.
Mục lục
Nguồn gốc tên gọi đền Cuông
Đền Cuông (hay còn gọi là đền Công) nằm ở lưng chừng núi Mộ Dạ (Diễn Châu, Nghệ An) cũng là một ngôi đền linh thiêng nổi tiếng khắp dân gian xứ Nghệ. Sở dĩ đền có tên như vậy là vì xưa kia, núi Mộ Dạ là nơi sinh sống của rất nhiều chim công.
Người dân nơi đây thường gọi chim công theo tiếng địa phương là chim cuông. Do đó, ngôi đền nguy nga nằm trên ngọn núi này cũng được gọi luôn là đền Cuông (đền Công). Đền được lập nên để thờ An Dương Vương. Về nguồn gốc ngôi đền, người dân xứ Nghệ còn kể cho nhau nghe câu chuyện này…
Đền Cuông nằm trên quốc lộ 1A, thuộc xã Diễn An, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, cách thành phố Vinh khoảng 30km về phía Bắc, được xây dựng trên lưng chừng núi Mộ Dạ, là đền thờ An Dương Vương.
Truyền thuyết về đền Công
Rời xa Cửa Lò rì rào tiếng gió biển. Chúng tôi đi về nơi An Dương Vương đang nghỉ ngơi.Tài liệu xưa cho rằng, tên Đền Cuông do ngày xưa trên núi Mộ Dạ có nhiều chim công, tiếng địa phương gọi là cuông, từ đó hình thành nên tên Đền Cuông. Truyền thuyết về Đền Cuông thì rất nhiều; nhưng phổ biến nhất có lẽ là câu chuyện về An Dương Vương.
Sau khi bắt đầu làm vua, An Dương Vương đổi tên nước Văn Lang thành Âu Lạc; dời đô từ Phong Châu về Cổ Loa, trị vì đất nước trong 50 năm ( từ năm 257 đến năm 208 TCN ). Năm 208 trước công nguyên, do mất cảnh giác; Thục An Dương Vương bị Triệu Đà đem quân bất ngờ tấn công, phải rút lui về phương Nam; tuẫn tiết tại Cửa Hiền, phía Bắc chân núi Mộ Dạ.
Để hoài tưởng công ơn của Thục An Dương Vương; dân chúng vùng Diễn Châu đã lập miếu thờ ngài ở Cửa Hiền. Ở đó còn có ngôi mộ con gái vua Mỵ Châu. Chuyện kể rằng, tuy đã có miếu thờ, nhưng mỗi khi màn đêm buông xuống, có những đốm lửa lập lòe trên sườn núi Mộ Dạ. Nhiều người cho đó chính là vong hồn của vua Thục muốn yên ngự trên sườn núi; nên đã lập đền thờ và rước vong hồn Ngài về đó thờ phụng.
Vẻ đẹp của di tích lịch sử đền Cuông
Ðền Cuông là một di tích lịch sử được xếp hạng quốc gia; cũng là một danh thắng mà bất kể ai đã đến sẽ khó quên bởi sự kết hợp giữa kiến trúc và cảnh trí tự nhiên. Kiến trúc đền theo kiểu chữ “Tam”. Thượng điện đặt bàn thờ Thục An Dương Vương, qua khoảng sân hẹp sang trung điện đặt bàn thờ Cao Lỗ, tướng giúp vua chế tạo nỏ thần.
Kiến trúc thiết kế
Đền có ba tòa. Tòa trung điện xây theo kiểu chồng diêm tám mái; các tòa khác trong đền đều có kiến trúc bốn mái, đầu đao cong vắt. Tòa nào cũng đồ sộ, cột to, thành dày với hoa văn, tứ linh trỗ tinh xảo. Trên các cột có nhiều câu đối, thơ đề bằng chữ Hán của các quan tư, danh nho thời trước.
Xung quanh Đền Cuông, những ngọn núi, những tảng đá đều mang tên những truyền thuyết; những huyền thoại về Thục An Dương Vương. Tảng đá bàn cờ là nơi Thục An Dương Vương ngồi đánh cờ với Thần Kim Quy. Tảng đá gạo dưới chân núi Mộ Dạ trông như một khối gạo đông lại. Tục truyền từ Cổ Loa vào đến đây, Thục An Dương Vương phát gạo, cho binh lính về nhà làm ăn sinh sống. Số gạo còn lại đông thành tảng đá đó. Núi Cờ, núi Kiếm, núi Áo, núi Mão, núi Gươm, núi Đầu Cân… mỗi núi mang tên một vật trên mình của Thục An Dương Vương.
Lễ hội tại đền Công
Lễ hội Đền Cuông vào ngày 15/2 hàng năm cũng là một trong những hội lễ nổi tiếng ở nước ta; lôi cuốn khách thập phương về tham gia. Đến Đền Cuông, du khách không thể bỏ qua một đặc sản chỉ có ở đây, đó là trà lá vung. Dưới chân núi có một gia đình chăm làm nghề hái lá vung trên núi về phơi khô bán cho khách. Có người cho rằng, lá vung có khả năng chữa các bệnh như đau bao tử, cao huyết áp… Mặc dù biết có đúng không nhưng uống rất ngon.
Hôm ấy, chúng tôi đến Đền Cuông vào buổi chiều. Sau khi tham quan đền chúng ta ngồi lại quán dưới chân đền để nghe kể về những câu chuyện xưa; thưởng thức chén trà lá vung. Trong buổi chiều mùa hè, vị trà ngon, không khí trong lành, êm đềm; Đền Cuông, Cửa Lò đã để lại trong mỗi người chúng tôi những hồi ức rõ rệt khó quên!
Nguồn: dulichkhatvongviet.com